Ý tưởng liên bang Liên_bang_hóa_Úc

Thống đốc đọc Tuyên ngôn của Nữ vương về liên bang hóa tại Brisbane

Hội đồng Liên bang

Một phong trào nghiêm túc về vấn đề liên bang hóa các thuộc địa phát sinh vào cuối thập niên 1880, một khoảng thời gian chứng kiến sự gia tăng chủ nghĩa dân tộc trong người Úc khi đại đa số họ sinh tại địa phương. Ý tưởng về "người Úc" bắt đầu được tán dương trong các bài hát và bài thơ. Điều này được thúc đẩy nhờ các tiến bộ trong giao thông và thông tin, chẳng hạn như thiết lập một hệ thống điện báo giữa các thuộc địa vào năm 1872. Các thuộc địa Úc cũng chịu ảnh hưởng từ các liên bang khác đã xuất hiện khắp thế giới, đặc biệt là tại Argentina, Canada, Thụy SĩHoa Kỳ.

Henry Parkes đương thời là Bộ trưởng Thuộc địa New South Wales, ông là người đầu tiên đề xuất một cơ cấu Hội đồng Liên bang vào năm 1867. Sau khi nó bị Bộ trưởng Thuộc địa Anh Quốc là Công tước Buckingham bác bỏ, Henry Parkes lại đưa vấn đề lên một hội nghị vào năm 1880, đương thời ông giữ chức Thủ tướng New South Wales. Trong hội nghị, các đại biểu từ Victoria, New South Wales và Nam Úc cân nhắc một số vấn đề bao gồm cả liên bang hóa, truyền thông, người Hoa di cư, bệnh trên cây nho và thống nhất mức thuế quan. Liên bang hóa có tiềm năng giúp đảm bảo rằng trên toàn lục địa, mậu dịch, và thương nghiệp liên thuộc địa sẽ không chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa bảo hộ và đo lường cùng giao thông sẽ được tiêu chuẩn hóa.

Sự thúc đẩy cuối cùng đối với Hội đồng Liên bang đến tại một hội nghị vào năm 1883, kêu gọi tranh luận về các chiến lược cần thiết để chống lại các hoạt động của ĐứcPháp tại New Guinea và tại New Hebrides. Thủ tướng Queensland là Samuel Griffith soạn thảo một dự luật nhằm thiết lập Hội đồng Liên bang. Hội nghị kiến nghị thành công với Quốc hội Đế quốc về việc ban hành Đạo luật Hội đồng Liên bang Australasia 1885.

Kết quả là một Hội đồng Liên bang Australasia được thành lập nhằm dại diện cho các sự vụ của các thuộc địa trong quan hệ của họ với các đảo Nam Thái Bình Dương. New South Wales và New Zealand không tham gia. Các thuộc địa tự quản Queensland, Tasmania và Victoria, cũng như Thuộc địa vương thất Tây Úc và Fiji tham gia Hội đồng. Nam Úc là một thành viên trong khoảng thời gian 1888-1890. Hội đồng Liên bang có quyền lực lập pháp trực tiếp trên một số vấn đề nhất định, như liên quan đến dẫn độ, quy định về ngư nghiệp, song không có thư ký thường trực, quyền lực hành pháp, và thuế. Sự thiếu vắng của thuộc địa hùng mạnh New South Wales cũng làm suy yếu giá trị đại diện của Hội đồng.

Bức họa phát hành năm 1888 miêu tả tình cảm bài Hoa, một trong các động lực thúc đẩy liên bang hóa.

Tuy nhiên, đó là một hình thức trọng đại đầu tiên trong hợp tác liên thuộc địa. Nó tạo một cơ hội cho những người liên bang chủ nghĩa từ khắp lục địa tụ họp và trao đổi các ý tưởng. Cách thức mà Hội đồng được thành lập xác nhận duy trì vị thế mà của Quốc hội Đế quốc sẽ có trong sự phát triển của cấu trúc hiến pháp Úc.

Phản đối ban đầu

Ngoại trừ Victoria thì các thuộc địa riêng lẻ phần nào cảnh giác với liên bang hóa. Các chính trị gia từ các thuộc địa nhỏ hơn không thích ý tưởng về việc giao phó quyền lực cho một chính phủ quốc gia; họ lo ngại rằng bất kỳ chính phủ như vật sẽ không tránh khỏi việc bị chi phối bởi New South Wales và Victoria thịnh vượng hơn. Về phần mình, Queensland lo lắng rằng sự ra đời của pháp luật quốc gia (chính sách Úc Da trắng) sẽ hạn chế việc nhập khẩu lao động Kanaka, do đó gây nguy hiểm cho ngành công nghiệp mía đường của mình.

Các thuộc địa nhỏ hơn cũng lo ngại về việc bãi bỏ thuế quan, điều này sẽ làm mất một phần lớn trong thu nhập của họ, và thương nghiệp của họ phụ thuộc vào các thuộc địa lớn hơn. New South Wales theo truyền thống có quan điểm về tự do mậu dịch, muốn được thỏa mãn rằng chính sách thuế quan của liên bang sẽ không bảo hộ. Thủ tướng Victoria James Service miêu tả liên minh tài chính như "con sư tử trên đường" của liên bang hóa. Một vấn đề cơ bản nữa là làm thế nào để phân phối thuế quan dư từ chính phủ trung ương cho các bang. Đối với các thuộc địa lớn, có khả năng họ bị yêu cầu trợ cấp cho các nền kinh tế chật vật của Tasmania, Nam Úc và Tây Úc. Ngoài ra, còn có tranh luận về hình thức chính phủ liên bang.

Phong trào lao động Úc mới phát sinh không toàn toàn cam kết ủng hộ cho liên bang hóa. Một mặt, tình cảm dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ trong phong trào lao động và do đó có nhiều ủng hộ cho ý tưởng Úc Da trắng. Mặt khác, các đại biểu lao động lo ngại rằng liên bang hóa sẽ làm sao lãng sự chú ý về tính cần thiết phải cải cách xã hội và công nghiệp, và tiếp tục tăng cường sức mạnh cho lực lượng bảo thủ. Các hội nghị liên bang hóa không bao gồm các đại biểu của tổ chức lao động. Trong thực tế, hiến pháp liên bang được đề xuất bị các đại biểu lao động chỉ trích là quá bảo thủ. Các đại biểu này muốn thấy một chính phủ liên bang với nhiều quyền lực lập pháp hơn trên các vấn đề như tiền lương và giá cả. Họ cũng nhận định Thượng nghị viện được đề xuất là quá mạnh, có khả năng ngăn chặn các nỗ lực về cải cách xã hội và chính trị, giống như thượng viện các thuộc địa tiến hành khá công khai vào đương thời.

Các yếu tố tôn giáo đóng một vai trò nhỏ song quan trọng trong các tranh luận về khả năng liên bang hóa. Những thủ lĩnh ủng hộ liên bang hóa là các tín đồ Tin Lành, trong khi những tín đồ Công giáo ngoan đạo thì yếu hơn nhiều, nhất là do Parkes đã chiến đấu chống Công giáo trong hàng thập niên (và do tín đồ Công giáo đại diện không tương xứng trong thành phần của phong trào lao động).